Những tiền đề
của triết học truyền thống
Khi nêu lên lối suy nghĩ
phổ cập nầy của người Tây phương qua các thế kỷ, G. Gusdorf ngạc nhiên về lối
nhận định còn mơ hồ, thiếu kiểm chứng:
" Như thế thì trước thế kỷ thứ 6 không có gì
xảy ra hay sao, và những nơi khác ngoài Milet thì sao?" [2][2].
Nhưng, mỗi lần đối đầu
với những xã hội văn minh khác, những nếp suy tư khác mình, thì như để biện
minh cho nền tảng suy tư triết học truyền thống Hy-lạp Tây phương, người ta vội
đưa ra một đặc tính phổ quát như một đặc quyền đương nhiên của truyền thống ấy
về sở đắc chân lý nhằm tuyển lựa, thanh lọc mọi yếu tố dị biệt. Nhưng liệu Tây
phương hóa được đồng hóa với một tiến trình phổ biến chân lý cho mọi dân tộc
theo một mẫu mực riêng của mình như thế, thực sự có một cơ sở nào vững chắc để
xác minh không? Cho đến nay, người ta thường dựa vào thực tế lớn mạnh của Tây
phương về đủ mọi mặt trên các phần đất của thế giới để mặc nhiên nhìn nhận tính
phổ quát nầy, nhưng sự kiến hiệu của sức mạnh bên ngoài trong một giai đoạn của
lịch sử nhân loại có phải là một tiêu chuẩn tất yếu để định giá tư tưởng và
triết học không?
Kỳ thực ngay khi nêu
danh Socrate như một mấu móc khởi nguyên cho lịch sử của triết học truyền
thống, thì người ta đã chứng kiến một thực tế ngược lại quan điểm nầy: Socrate
được đánh giá là người tiền phong đưa chân lý từ trời xuống nơi tâm hồn của con
người, Socrate đó đã không phải là người ở bên lề của một xã hội lịch sử lấy sự
kiến hiệu của hành động thay cho suy tư khám phá chân lý hay sao? Socrate đã
không bị những quyền lực xã hội chính thức lên án tử hình, và đồng thời lại
được truyền thống triết học tuyên dương là con người xem ra như thua cuộc trước
phán đoán của xã hội lịch sử đương thời, nhưng đã chiến thắng trong chân lý hay
sao?
Nhưng Socrate chết cho
chân lý và đi ngược với trào lưu lịch sử đó đã bị truyền thống triết học lãng
quên; người ta chỉ còn biết đến một Socrate được giản lược vào nhân vật đề cao
lý trí vạn năng của con người trong sự hiểu biết về chính mình, cũng như thần
thánh và vũ trụ bên ngoài:
" Lịch sử triết học, được đồng hóa với kỷ
nguyên Socrate, tự cho mình có phận vụ tập hợp những hình ảnh của những ai đã
đặt vấn đề triết học như Socrate và khai triển vấn đề theo đúng các phương pháp
tương tự như phương pháp của ông. Nên khởi đầu cũng đã là hoàn tất. Bắt đầu với
Socrate, thì chấm dứt cùng với ông ấy; người ta thu hẹp toàn bộ tư tưởng nhân
loại vào mấy bức tường của một truyền thống. Tên của Khổng Tử sẽ không được
nhắc đến, kể cả tên của Đức Phật - và tên của Đức Giêsu chỉ được nêu lên qua
ngõ ngách của một lối biến thể, gọi tên là học thuyết Socrate Kitô giáo. Emile
Bréhier nói rõ ràng như thế nầy: Nếu không có sự trung gian của Socrate, không
có triết học Kitô giáo (Histore de la
Philosophie T.I., trang 494) " [3][3].
Socrate đã được tôn vinh
là khởi đầu và là điểm chấm dứt của triết học vì triết học chỉ được hiểu là
sự "hiểu biết".
"Hiểu biết"
được rút ra từ câu châm ngôn ghi trước mặt tiền đền thờ Delphes "Người ơi hãy tự biết mình", mà
Socrate nhắc lại như tóm kết về sự khôn ngoan mà ông truyền bá; nhưng nội dung
của nó đã không được hiểu trong toàn bộ tương quan giữa câu nầy và cảm nhận
riêng của Socrate:
"Người ơi hãy tự biết mình"
Thực ra cái mới nơi
Socrate là lấy chính cuộc đời, cảm hứng và kinh nghiệm của mình để diễn tả nỗi
khắc khoải nơi tâm hồn con người hướng về chân lý thay cho lối diễn tả bằng thi
ca, huyền thoại và bi kịch trước đó của Hy-lạp. Kinh nghiệm thiết thân nầy đi kèm
với một lối nói thông thường của những đối thoại, giao tiếp hằng ngày của con
người trong cuộc sống thực tế. Nhưng hình thức trình bày mới nầy không mảy
may xoá bỏ hay lờ đi những thảm kịch cam
go của thân phận làm người; một thân phận bị thúc bách bởi lời mời gọi ý thức
về bản tính chân thật của mình, đồng thời lại cảm nhận một giới hạn không vượt
qua nổi.
Vượt lên trên hình thức
diễn tả trước thời ông, Socrate đã dám cập nhật bi kịch làm người từng được
trình bày ở đằng xa, trong huyền thoại và lối diễn tả có tính cách quần chúng
về sân khấu, bi kịch, để đưa vào hiện sinh và ngôn ngữ của mỗi người, và cụ thể
là của cuộc đời ông.
Tuy thế, F. Nietzsche đã nêu lên một Socrate mơ mộng
ngây ngô chủ trương lấy sự hiểu biết của mình để xác minh nền tảng chân lý như
một vật có sẵn trong tầm tay, một Socrate đã chấm dứt truyền thống bi kịch
Hy-lạp... Nhận định như thế phải chăng còn câu chấp về hình thức diễn đạt hoặc
giả không muốn biết đến một Socrate nào khác ngoài hình ảnh giản lược của
truyền thống triết học gán cho Socrate!
Truyền thống triết học
Tây phương, mặc dù vẫn có trong tay những tài liệu nầy về Socrate (phần lớn qua các tác phẩm của Platon), nhưng lạ thay mỗi lần
nhắc lại Socrate như bậc thầy khai sáng ra triết học thì người ta lại chuyển
ông thành một nhân vật trong bài thơ về Hữu thể của Parménide.
Phần mở đầu của bài thơ
ấy hầu như diễn tả tóm gọn nội dung mà truyền thống Tây phương gán cho Socrate:
"Những con ngựa cái chở tôi, đã dẫn tôi viễn
du theo đúng như những gì mà lòng tôi có thể mong ước, vì chúng đưa tôi qua con
đường phong phú của mạc khải thần thánh; con đường xuyên qua cái thị thành, dẫn
lối kẻ hiểu biết " [5][5].
Tư tưởng ví như một giấc
mơ, vuợt lên trên thân phận con người trong thời gian - không gian, để đi vào cảnh vực của chân lý mở toang ra cho
con người.
Từ trong chân trời mới
đó, từ nay triết học mở ra, đặt nền trên một xác quyết:
"Hiểu biết" được gọi là suy tư triết học khi
đặt nền sự suy tư đó trên sự am tường tiên thiên rằng "suy tư và hữu thể
chính là đồng nhất thể", và con người nắm được khả năng quán triệt sự
đồng nhất nầy.
Đó là hai tiền đề căn
bản thiết định bản chất và tiến trình của triết học Tây phương giải minh câu
nói của G. Gusdorf: người ta khởi đầu với
Socrate, thì cũng chấm dứt với ông. Thực ra chính trong bài thơ của
Parménide cũng đã có một câu tương tự:
Nói một cách khác
Xuyên qua lịch sử triết
học Tây phương và ảnh hưởng của lối thiết định bản chất và tư tưởng con người
khởi từ các tiền đề được xem là tất yếu và không cần xét lại nầy, đã có nhiều
phương cách để khai triển về hai lãnh vực suy tư và hữu thể; và từ đó có những
hình thức diễn đạt khác nhau.
Nhưng tiêu chuẩn có thể đánh giá chân lý của triết học
là làm sao tìm được sự tương hợp giữa suy tư, đối tượng của suy tư (hữu thể) và
phương cách diễn đạt, tiền kiến rằng cả ba là một nhất thể.
Chúng ta không liệt kê
ra đây những diễn tiến của lối suy tư triết học nầy qua nhiều thời đại lịch sử,
rất đa tạp với những hệ thống và tên gọi khác nhau. Nhưng cuộc viễn du có qua "bao nhiêu thị thành", nghĩa
là xuyên qua bao hệ thống khác nhau thì hai tiền đề trên vẫn là tiêu chuẩn để
xác minh tên gọi của chúng.
Và câu hỏi đáng làm ta
suy nghĩ vào thời đại của chúng ta là tại sao có sự đào thải triết học đồng
thời với sự xuất hiện của khoa học.
Thông thường người ta
tránh né trả lời trực tiếp vào nội dung của thắc mắc về sự đào thải bộ môn và
sinh hoạt triết học, hoặc về sự quên lãng tính cách nền tảng tối thượng của suy
tư triết học được đồng hóa với yếu tính của con người, mà chỉ nhắc lại sự phân
biệt có tính cách truyền thống giữa triết học và khoa học dựa vào đối tượng
riêng của mỗi bộ môn. Khoa học được hạn chế vào các đối tượng hữu hình, có thể
nói thuộc trật tự thiên nhiên, vật chất, còn triết học có đối tượng là "con người suy tư", hiểu biết được
nguyên lý của các sự vật [9][9].
Thực ra sự phân biệt đó
không còn ăn khớp với diễn tiến sinh hoạt của khoa học ngày nay. Một mặt những
sinh hoạt được xem là phần đất riêng của triết học truyền thống đều chuyển dần
qua lãnh vực của khoa học, được gọi chung một cách như đã quen thuộc là khoa
học nhân văn, ngay cả bộ môn gọi là khoa học tôn giáo. Và trong viễn tượng đó,
người ta không hiểu tại sao triết học còn tự nhận rằng sự hiểu biết các nguyên
lý của các sự vật là phần đất riêng của mình, trong lúc khoa học còn tiến hóa
và truy tìm về nguồn gốc của vũ trụ, cũng như của sinh vật người?
Vào những năm tháng
chúng ta đang sống, trước những khó khăn của xã hội mà người ta đánh giá là do
hậu quả của phát triển và áp dụng không ý thức của các bộ môn khoa học, đặc
biệt là khoa học kỹ thuật, thì tưởng chừng như có sự xét lại tận căn về một cái
gì bất ổn sâu xa hơn. Nhưng sự thể không xảy ra như thế. Khi gặp những hậu quả
còn hạn chế và tiêu cực của một ngành khoa học nầy, thì một nền khoa học khác
lại phát sinh để tìm phương thức giải quyết. Nếu có nguy cơ nguyên tử, ô nhiễm
môi sinh, thì có khoa học môi sinh đáp ứng nhu cầu điều chỉnh...
Người ta một lần nữa lại
phân biệt sinh hoạt thuần túy khoa học và tâm thức con người lấy khoa học làm
nền tảng cho toàn bộ suy tư và hành động của con người. Nói cách khác phải phân
biệt khoa học và khoa học chủ nghĩa. Phần sau nầy được xếp là thuộc về một tư
duy thuần triết lý.
Nhưng tại sao một triết
thuyết lại chối từ bản chất triết học của mình? Và tại sao sinh hoạt triết học
truyền thống không đủ sinh lực để biện minh cho sự tồn tại của mình trong tâm
thức của con người thời đại chúng ta?
F. Nietzsche diễn tả
tình trạng nầy là "Sa mạc lớn dần". Và để giải thích câu nói bóng bảy
nầy, M. Heidegger khi chân nhận suy tư là sinh lực của con người, thì khẳng định
không tương nhượng rằng: "Khoa học
không suy tư gì cả " [10][10]. Và còn hơn thế nữa, truyền thống
triết học, trong đó chủ nghĩa khoa học là một bước đường cuối cùng, tự đồng hóa
sinh hoạt của mình như là một nỗ lực suy tư cao độ và nền tảng, thì thực sự nó
cũng chưa từng suy tư bao giờ:
" Điều đáng làm ta suy tư hơn cả trong thời
đại đang thúc đẩy chúng ta suy tư, thời đại hôm nay của chúng ta, đó là chúng
ta chưa từng suy tư "[11][11].
Thời đại đáng làm ta suy
tư vì triết học tự nhận là suy tư đang tự hủy chính mình, cống hiến cho chúng
ta một dấu chỉ để truy tìm bước sa sẩy căn nguyên của sự đồng hóa nầy, đồng
thời để đặt lại vấn đề về bản chất uyên nguyên của suy tư gắn liền với thân
phận con người.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét