Phần minh giải
Tiểu đoạn 1
Thời nguyên sơ qua hình ảnh Long Trang
- Âu Cơ (hình ảnh của chiều kích thời gian hữu hạn = Đất) ở với Lạc Long
Quân (hình ảnh của chiều kích tuyệt đối,
vô tận = Trời),
- Thành ngữ Một năm (tượng trưng cho Năm cao cả, thời hoàn mãn),
- Hình ảnh 100 trứng (tượng trưng cho sự hợp nhất trong đa biệt,
mối tương giao hoàn hảo tự căn nguyên, khởi thủy),
- Không ăn, không uống nhưng trường đại,
trí dũng song toàn (tượng trưng cho sự
hoàn tất, vượt lên những giới hạn của thời gian, không gian).
Những chi tiết dồn dập tượng
trưng cho một cảnh vực "như là không thực", nếu ta hiểu chữ
"thực" như là toàn bộ những gì con người có thể tiếp cận được nơi
cảnh giới thiên nhiên "ở đây - vào lúc nầy".
Cảnh vực "như là không
thực" nầy, nếu đối chiếu với tiền kiến đóng khung nhân sinh vào thế giới
của thiên nhiên - cây cỏ, thế giới của "bây giờ và ở đây", thì được
ví như là "bờ bên kia" theo phạm trù không gian; hoặc như một vết
tích lưu lại bất chấp giòng trôi chảy sinh - diệt của thời gian, một ký ức
nguyên sơ (Đại-ký-ức); có lúc còn được diễn tả như Tuyệt đối hay cứu cánh hoàn
thành mọi ước vọng, mọi khao khát cùng tột của con người.
Ngôn ngữ truyền thống văn hóa
Việt Nam và Trung Hoa tóm gọn cảnh vực nầy trong chữ "linh" = Con người là sinh vật "Linh ư vạn vật".
Trực giác nguyên sơ về chân
tính không phải là ý thức về khả năng hiểu biết về sự vật. Bình minh của tư
tưởng là sự tiếp nhận một ánh sáng của "bờ bên kia", là thoáng nghe
được âm vọng của Đại Ký Ức trong mình
nhưng không phải do mình. Con người được kéo lên khỏi mặt đất để cảm nhận
các mối tương giao mới mở ra từ ánh dọi nầy.
Âm hưởng của chữ "linh" trước hết là trực giác một cái gì xa, vượt lên, ngoài
tầm tay với của khả năng thường nghiệm. Ngôn ngữ của các nền văn hóa thường
dùng một lối nói đối nghịch dựa và các phạm trù không gian - thời gian để cố
gợi lên một nội dung khác, vượt lên cả sự đối nghịch của nhận thức thường
nghiệm: Bên trong, bên trên, bên kia..., thường hằng, thời nguyên sơ, địa đàng,
thủa ấy...
Nơi phần cuối của tiểu đoạn
nầy, tác giả Lĩnh Nam Chích Quái dùng hai thành ngữ riêng để diễn tả cảnh giới
"linh": "ai cũng úy phục,
bảo nhau đó là anh em phi thường".
"Linh" được diễn tả ở đây là "phi thường", vừa có nghĩa là
vượt lên trên cuộc sống thường nghiệm lại vừa gợi tâm tình kính trọng và yêu
thích (úy phục). Hơn thế nữa, chính
sự phi thường đó qui tụ lại những đa biệt của các cá nhân riêng lẻ qua chữ
"ai cũng..."
Âm hưởng thứ hai của chữ
"linh" được mặc nhiên nói
lên trong toàn bộ tiểu đoạn nầy là đặc tính huyền
nhiệm, ẩn kín.
Huyền nhiệm khác với huyền
hoặc ở chỗ nào?
Huyền nhiệm là một thực thể ẩn mình vừa hé lộ ra cho trực
giác của con người, nhưng lại rút lui. Như buổi rạng đông khi Mặt trời chưa
xuất hiện nhưng ánh dọi đã đuổi dần màn
đêm tăm tối. Mặt trời mãi bên kia chân
trời, nhưng chính từ ánh dọi của nó, mọi sinh vật tiếp nhận sự sống và hướng về
nguồn sinh lực đang ẩn kín. Huyền thoại, dụ ngôn thi ca diễn tả sự tiếp nhận
nguồn sinh lực mới của chân tính ẩn dấu, nhưng dùng chất liệu của cuộc sống
thường nhật để cố diễn đạt một thực thể phi thường, mà ngôn ngữ thông thường bất
cập. Cũng vì thế đằng sau hình thức ngôn ngữ quái dị hay đối nghịch, phải được
hiểu là một thực thể khác, vượt lên trên sự đối nghịch nơi nhận thức thường
nghiệm. Chẳng hạn khi nói đến vô tận, bờ bên kia, trên trời, trong tâm hồn...,
là nói đến cảnh giới vượt qua những nhận thức khả giác. Lấy một thí dụ hết sức
đơn giản, một khâu tròn bằng kim loại, trên phương diện nhận thức thông thường
và khoa học là một vật trước mắt như bao nhiêu vật khác, nhưng đối với đôi vợ
chồng kia, nó không chỉ còn là vật kim loại bình thường, mà là một cái gì phi
thường, dấu chỉ của tình yêu nối kết hai người. Sự nhảy vọt vào cảnh vực phi
thường nầy vượt lên trên các mấu móc nhận thức sự vật như thế nào, thì cảnh
giới "linh" vượt lên trên thế giới khả giác như thế. Nên có thể nói
rằng qua các lối nói đối nghịch "trên trời" ngược lại với trần thế,
linh thiêng ngược lại với phàm tục, "vô" ngược lại với thực tại trước
mắt... chỉ là lối nói tượng trưng, thi ca nhằm diễn đạt một bước nhảy vào một
cảnh vực khác, chứ không nhằm diễn tả một tình trạng đối nghịch của hai thực
thể đồng bản chất, hay xây dựng trên một nền tảng thuần vật thể thuộc thế giới
thường nghiệm. Trong trực giác về chân tính của con người, "linh" nơi
cảnh giới phi thường nầy là những mối tương giao mới làm cho câu chất vấn của
ta về mình, về tha nhân khởi phát từ chữ "ai", khác với câu hỏi của
nhận thức cũ là "cái gì". Lối nói phủ định hay đối nghịch như thế
không phải phát xuất từ phán quyết của nhận thức con
người do tự quyền năng của mình, nhưng là tượng trưng cho sự phủ định của chân
tính về toàn bộ những phán quyết và sự hiểu biết thường nghiệm trước đây của
ta. Vì thế huyền thoại nhằm khai mở Chân tính luôn hàm ngụ một sự phủ định ý
hướng muốn đóng khung hứng khởi của nó trong khuôn khổ thuần thời gian của lịch sử.
Nếu huyền nhiệm phát xuất từ một thực tế vượt lên trên
khả năng tiếp nhận và phương thức diễn đạt của con người, thì huyền hoặc là
những hình ảnh do chính khả năng tưởng tượng của con người
phóng đại hay bóp méo, sửa đổi các chất liệu trong tầm tay để tạo nên những
cảnh vực theo sở thích hay chủ định riêng của mình. Từ những câu truyện rùng
rợn để giải trí hay nhằm giải thích sự hình thành vũ trụ, ngay cả việc suy diễn
và sáng tác ra thần thánh, đến các dự
phóng về nhân sinh quan thường gọi là ý thức hệ, ở nhiều cấp độ khác nhau với những khả năng kiến thức còn sơ khai hay rất khoa học, mà nhiều hình
thức huyền hoặc đã phát sinh trong lịch sử. Nhưng, lấy lại hình ảnh của chiếc
nhẫn, ý nghĩa của nó chỉ được cảm nhận đầy đủ nơi tương quan giữa hai vợ chồng
yêu thương nhau; trái lại, những nỗ lực để khai thác và hiểu nó theo chủ định
riêng của bất kỳ ai, thì những dự phóng kia đều là huyền hoặc đối chiếu với ý
nghĩa đặc loại dành cho nó. Và đó là sự khác biệt giữa huyền nhiệm Đạo
thường với nhân vi được gợi lên trong tư tưởng Lão, giữa huyền nhiệm của giác
ngộ với hành tạo nghiệp (Karma) trong
tư tưởng nhà Phật, giữa Tâm ẩn kín của Đạo với các dự phóng mê lầm, dục vọng
bất chừng của nhân sinh được nói đến trong Kinh Thư.
Nét đặc trưng thứ ba nơi cảnh
vực "linh" của chân tính được diễn tả trong đoạn văn cô đọng nầy là
mối ưu tư đặc biệt về các mối tương giao
nền tảng cấu thành chân tính. Các mối tương giao đó được diễn tả trong cuộc
sống chung của Âu Cơ và Lạc Long Quân. Không phải chỉ trong đoạn văn nầy, mà toàn
bộ Lĩnh Nam Chích Quái...cũng chỉ nhằm một mối ưu tư duy nhất: gợi lên những
mối tương giao Đất - Trời- Người kết dệt nên tính thể của con người, hay Nhân
đạo. Đây là nét đặc trưng cơ bản của văn hóa Việt Nam, đã tạo sự ngỡ ngàng cho
nhiều giới thường quen với nếp suy tư truyền thống Tây phương. Đến độ, sau nầy,
ngay cả các học giả Việt Nam như Dương Quảng Hàm và Trần Trọng Kim cũng cho
rằng dân tộc Việt Nam qua lịch sử chưa có một cái học gì gọi là nền quốc học
riêng.
Trước hết, khi đối chiếu với
truyền thống triết học Tây phương, Hy lạp, một truyền thống đang phổ cập trong
cuộc sống văn minh ngày nay, chúng ta thấy hai phương cách suy tư nầy tự nền
tảng có gì khác nhau?
Nền tảng của nếp tư tưởng theo truyền thống triết học Tây
phương - Hy lạp không phải đã không nêu lên các yếu tố Đất - Trời - Người: Vũ
trụ - Thượng đế - Linh hồn là ba đối tượng của siêu hình học, tạo thành siêu
hình học đặc loại (metaphysica
specialis), tương ứng với ba ngành học là Vũ trụ học - Thần học và Tâm lý
học hay sao? Thế nhưng cả ba đối tượng nầy được xây dựng trên một điểm tựa duy
nhất là "ens qua ens" (một
tham-thể kỳ-dị tự đủ cho mình, không liên hệ với ai). Bộ môn học căn cơ nầy gọi
là Siêu hình học tổng quát (metaphysica
generalis) hay Hữu thể học (ontologia).
Nhưng đây là truyền thống gọi là hậu Aristote, nghĩa là lối ứng dụng các triết
thuyết của thời cổ điển Hy lạp vào trường ốc.
Nỗ lực quay lại thời Hy lạp tiền triết học (nghĩa là
trước Socrate, Platon) của các triết gia trong hai thế kỷ nay, đặc biệt là của
F, Nietzsche, cho chúng ta thấy lịch sử truyền thống triết học Tây phương khởi
đầu bằng một bước lệch đường trong cách đặt vấn đề về tư tưởng so với thời kỳ
tiền triết học: Không những các nhà tư tưởng bi kịch như Sophocle, Eschyle, mà
ngay nay cả Parménide, Socrate, Platon cũng đã bị hiểu lầm. Nói một cách cô
động là ưu tư về mối tương quan rất
kỳ bí giữa hữu thể esse (être) và
tham thể ens (étant) của thời tiền
triết học đã bị quên lãng và chuyển hướng thành câu hỏi về bản tính của tham thể. Có gì khác lạ trong sự chuyển hướng nầy? Như
đã nêu lên, ưu tư nền tảng của tư tưởng lúc khởi nguyên của văn hóa Hy lạp là
sự tương quan, chứ không phải truy tìm bản chất của bất kỳ đối tượng nào. Lấy
hai điển hình: Nơi Sophocle qua kịch bản "Oedipe
làm vua" thảm kịch được nêu lên làm con người suy nghĩ là mối tương
quan khó khăn của con người trong thời gian (Oedipe)
trước Trời là Cha Laios, và Đất
là Mẹ Jocaste. Ưu tư đó trong Siêu
hình học, Thần học sau nầy lại được hiểu là sự truy tìm một bản chất tối
thượng, tự đủ cho mình, không cần đặt vấn đề có tương quan gì với ai. Bản chất
tối thượng nầy được gọi là Summun Ens.
Hệ quả là tư tưởng được hiểu như là sự hiểu biết các đối vật riêng lẻ trước
mắt, tiền kiến rằng không có gì là "linh" nghĩa là nằm ngoài khả năng
của lý trí con người. Khi một vật thể, không tự đủ cho mình, thì bấy giờ mới
đặt ra vấn đề tương quan chiếu theo luật nhân quả để tìm lấy cái nền "hữu
thể" nơi một vật khác cao hơn nghĩa là không cần đến một cái gì khác để
hiện hữu.
Ta dịch chữ ens
là "tham thể", đúng như nguyên tự của các ngôn ngữ Tây phương ở thể
tham dự vào (participe); nhưng thể
tham dự nầy đã mất đi sinh lực của nó trong ngôn ngữ triết học, để chỉ còn được
truy cứu về sự cô độc, bất động của một vật thể. Đến đây ta hiểu một phần nào
nội dung tích cực của thành ngữ diệt ngã
trong ngôn ngữ nhà Phật. Ngã ở đây là
một "tham thể" đã tự biến mình thành "chấp ngã", biến sự
sống tức là sự tham dự vào một ai khác, thành ngã tự-tại. Và trong câu truyện
Hồng Bàng Thị của Lĩnh Nam Chích Quái, ngã tự tại đó được gợi lên nơi hình ảnh
của con người mê lầm và thái hóa Đế Lai.
Nơi câu truyện Hồng Bàng Thị,
và đặc biệt ở đọan văn quan trọng nầy, nỗi bận tâm của tư tưởng, văn hóa không hướng về việc truy nguyên bản chất của vật thể, cũng như phương pháp vận
dụng trí năng hay một khả năng nào khác nơi con người để lãnh hội bản chất của
vật thể đó. Nỗi bận tâm của tư tưởng là
làm thế nào tiếp nhận, tồn dưỡng và phát huy hơi thở, sức sống của nhân tính, được trực giác như là toàn bộ
các mối tương giao Đất - Trời - Người linh hoạt nơi mình.
Và đặc tính "linh ư vạn
vật" được mặc nhiên nói đến trong hai câu cuối của tiểu đoạn nầy là tự
thức: "ai cũng úy phục, bảo nhau đó
là những anh em phi thường". Chữ
ai dùng ở đây cũng chính là tác giả câu truyện; và anh em phi thường cũng là chân tính ẩn dấu của những ai đó và của chính tác giả. Khi gặp được chân tính mình, hay
gọi là tự thức căn nguyên chân thực, thì con người không phải như ta thường
nghĩ là đóng cửa lại để giữ lấy hay trụ lấy một bản thể cô đơn, dành riêng cho
mình. Tự thức là bước ra khỏi một
ngã cô độc. Trước khi có biến cố tự thức, đã có những lối mở ra với thế
giới bên ngoài như tiếp nhận thức ăn, biết thở khí trời, suy tư tính toán, giao
tiếp với mọi người.v.v. Và đó là một sự sống, gọi là cuộc sống của một sinh vật
trong thiên nhiên. Yếu tố linh nơi
con người không dừng ở khung trời của sự mở ra của thiên nhiên bên ngoài như
thế. Cái "phi thường" hay "linh" của chân tính là bên trên
sự sống nầy, con người gặp được một sức sống mới nơi mình, mà ở đây tác giả gọi
là các mối tương giao Đất (Âu Cơ), Trời (Lạc Long Quân). Và từ mối tương
giao nầy con người nhận ra cái phi thường nơi người bên cạnh - (= ai cũng...). Nói cách khác, tự thức
là gặp lại chân tính của mình như là mở ra và kết hợp với Đất-Trời-Người. Ở đây
như có bước nhảy giữa cái "tôi"
của chân trời cũ để gặp được chân tính phi thường mà cái tôi cũ chưa từng biết
đến. Chính vì bước nhảy nầy mà Socrate vừa nêu lên câu châm ngôn "người ơi hãy tự thức" thì đồng thời
lại nhắc nhở "điều tôi biết thật sự
là tôi không biết gì cả". Không biết gì cả vì ở đây không phải là
khung trời của những cái gì của chân trời cũ làm đối tượng cho sự hiểu biết mới
nầy, và mặt khác chân trời của chân tính nơi tự thức chỉ hé lộ ra, rồi lại rút
lui hay siêu vượt lên trên khả năng tiếp nhận của con người. Trong ngôn ngữ
Kitô giáo, sự chết đi và sống lại được hiểu theo nghĩa nầy, như câu nói trong
bài ca Hoà bình của Thánh Phanxicô Assisi: "Vì chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời". Nhà Phật gọi
là diệt ngã chấp để gặp chân tánh. Tự thức là đi vào "cõi
người ta" như lối nói của Nguyễn Du để ý thức được chân tính linh ư vạn
vật, vượt lên trên thân phận của "sự sống thuần thân xác" (theo nghĩa
tượng trưng của Thánh Phaolô). Trong cõi người ta nầy, ánh mắt của cha tôi nhìn
tôi không chỉ là khả năng thấy của một sinh vật trong thiên nhiên, lời chào của
bạn tôi không phải chỉ là một âm thanh trầm hay bổng phát ra từ một máy phát
thanh. "Linh" không có
nghĩa là một vật khác, một nơi khác, nhưng chỉ xuất lộ cho một cõi linh thiêng
mà con người có khả năng tiếp nhận, đó là cõi
người ta.
Nhưng toàn bộ tiểu đoạn vừa
phân tích, như đã có lần nói ở trên, "xem ra không thực". Những chi
tiết như thành ngữ tượng trưng một năm (nói
về sự hoàn mãn hay nguyên ủy của thời gian = năm cao cả), không phải cho
ăn, cho bú mà tự nhiên trường đại...là một lối nói huyền thoại hàm ngụ một sự
thật vượt lên trên thân phận hiện tại của con người tại thế. Thánh kinh Do Thái
gọi là ấn tính của Thượng Đế ghi khắc nơi con người để nhớ đến thân phận nguyên
sơ của mình73. Có lúc được
diễn tả như một lời hứa sẽ được hoàn thành trong buổi chung cuộc của thời gian74.
Ở nơi bản văn Hồng Bàng Thị,
sự kết hợp giữa Đất hay thời gian là Âu
Cơ và Thần thánh vượt thời gian là Lạc Long Quân, được gợi lên như một căn tính
ẩn kín, ánh sáng chỉ dẫn bước đường của nhân sinh, mà tác giả Vũ Quỳnh gọi là
Cương Thường. Con người sống là thể hiện Chân tính nơi thời gian, hay nói một
cách đúng hơn, ở đây Chân tính con người được khai mở cho thấy con người là
thời gian gắn liền với vô tận. Ưu tư của tác giả Lĩnh Nam Chích Quái không tách
một loại thời gian nào ngoài Chân tính con người. Không một nơi nào trong các
câu truyện của Lĩnh Nam Chích Quái tác giả mô tả thời gian hay vũ trụ biến hoá
như là vận hành thay đổi một cách khách quan của sự vật trong thiên nhiên. Cũng
không có một đoạn nào tác giả gợi lên một loại thời gian tâm lý hay lịch sử hàm
ngụ một sự tiến hoá của bản tính nhân loại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét